Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

"Nặng" đào tạo. mới thêm "nhẹ" nghiên cứu.

Khuyến khích tạo điều kiện cho giảng viên tham dự các đề tài khoa học trong và ngoài nước. Có điều là định hướng của nhà trường thế nào. TS; tỷ lệ giảng viên có trình độ TS rất thấp. Ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Hoạt động NCKH chưa được coi là một trong hai nhiệm vụ trung tâm của trường.

KHXH&NV. Doanh nghiệp cần phải được triển khai mạnh mẽ hơn nữa. Trong cả nước có trên 400 trường ĐH. Các nghiên cứu xây dựng bài giảng điện tử. Cùng hàng trăm viện nghiên cứu. Chuyển giao công nghệ giữa nhà trường và doanh nghiệp cần được triển khai mạnh hơn nữa.

Kết quả nghiên cứu đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc thay đổi phương pháp dạy và học trong các trường đại học. Ở Việt Nam. Để làm được điều đó. Do vậy không còn thời gian để NCKH; Năng lực nghiên cứu của hàng ngũ giảng viên còn yếu. Nhiều luận án TS. Để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của từng lớp. Sức sáng tạo sẽ bị triệt tiêu. Một số trường đại học lớn như ĐHQG Hà Nội.

Tôi đánh giá cao tính thực tại trong các hoạt động NCKH thời kì qua. Các trường đại học đều coi NCKH là một trong 2 nhiệm vụ chính trị trung tâm của nhà trường. Kết liên với đối tác bên ngoài nhà trường. Ngoài tương trợ của Nhà nước thì tự bản thân các nhà trường cũng phải cố kỉnh khắc phục như chủ động chừng các hợp đồng đối tác bên ngoài.

Các trường ĐH - CĐ có tiềm lực KH&CN mạnh. Nhiều kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học là những tài liệu có giá trị phục vụ công tác đào ĐH và sau ĐH. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào? Ở các nước có nền giáo dục phát triển thường có 2 loại hình trường đại học là đại học nghiên cứu và đại học vận dụng. Giảm hoài và thời kì đi lại đã giúp cho sinh viên có thể chủ động bố trí thời kì học và lựa chọn nội dung học tập theo nhu cầu.

Trông nom sức khỏe và bảo vệ môi trường. Ông đánh giá thế nào về hoạt động KH&CN trong các trường ĐH. Góp phần nâng cao đáng kể chất lượng đào tạo.

Luận văn ThS là kết quả thực hành các đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia. Tuy nhiên. Kết quả được chuyển giao cho đối tác đặt hàng. Ở nhiều trường đại học hoạt động nghiên cứu được đề cao. TS. Cần phải làm gì để hoạt động NCKH ở các trường ĐH được đẩy mạnh. Nếu khắc phục được những hạn chế trên thì chắc chắn hoạt động NCKH ở các trường sẽ hiệu quả hơn.

Phải tăng khả năng nghiên cứu theo đặt hàng của các doanh nghiệp.

Nhưng cũng có không ít trường chỉ chú trọng vào đào tạo (nhất là các trường ngoài công lập) nên hoạt động nghiên cứu khoa học còn bị xem nhẹ. Chính sách tài chính giờ chưa tạo động lực và điều kiện tiện lợi cho các tổ chức.

Đây là bài học kinh nghiệm mà nhiều trường đã thực hành hiệu quả.

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Được thực hiện dưới nhiều hình thức như doanh nghiệp đặt ra nhu cầu. Cấp Bộ. Thưa ông? Đúng vậy. Nhưng phần nhiều các trường đại học đều tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Trọng điểm nghiên cứu nằm trong các trường đại học. NCKH cần phải dự báo trước được nhịp và đề ra kế hoạch hoạt động trong hội nhập quốc tế.

Các đề tài NCKH triển khai trong các trường ĐH. Đa lĩnh vực. Trọng tâm. PGS. Chính sách khuyến khích ra sao để người ta gắn bó mà thôi. Tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ của pháp luật.

Đã thu về hàng trăm tỷ đồng và ký hàng trăm bản ghi nhớ và thỏa thuận thực hiện sau Techmart. Đúng là các hoạt động nghiên cứu. CĐ trong thời kì qua cũng đã gắn kết chặt chịa với đào tạo nguồn nhân công trình độ cao.

# Trong kết quả khai triển các đề tài. Một trường đại học thì không thể thiếu vai trò NCKH và đã là giảng viên đại học thì chẳng thể không dự nghiên cứu. CĐ còn mang thuộc tính đơn ngành. Các giảng viên trẻ rất ham làm khoa học. TS Tạ Đức Thịnh giờ

CĐ bây giờ? PGS. Có thể nói. Được trình diễn. Cơ chế. Hoạt động KH&CN của các trường ĐH. Có ý kiến cho rằng. Nếu đã là đại học nghiên cứu thì giảng sư không thể không là nhà khoa học. Có hàng ngũ nhà khoa học đông đảo nhưng được đầu tư quá ít so với nhu cầu. 3 ĐH vùng. Chính sách của Đảng và quốc gia. Vấn đề là giảng sư có đam mê nghiên cứu khoa học không? Có cơ chế tạo động lực cho giảng sư dự nghiên cứu khoa học không? Nếu giảng sư đại học mà không tham dự NCKH thì kiến thức sẽ không được mở mang.

Dự án sinh sản thí điểm độc lập cấp quốc gia; các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản. Thiếu cơ chế để giảng sư được độc lập nghiên cứu. Nhiều trường đại học đem sản phẩm của mình tham gia Hội chợ Công nghệ và Thiết bị (Techmart).

Thưa ông. TS Tạ Đức Thịnh hiện thời. Giảng sư giảng dạy với số lượng giờ quá lớn. Thực tại bây chừ cho thấy. Đặc biệt là đào tạo ThS. Điều này không nên chút nào. KH&CN phục vụ công nghiệp. Nhiều giảng sư trẻ trưởng thành từ hướng dẫn SV làm khoa học Vậy theo ông. Quyến rũ người làm khoa học hơn. Từ những kết quả đã đạt được qua các hoạt động gắn kết NCKH và sản xuất kinh doanh.

Y tế. Nhà trường xây dựng thành đề tài nghiên cứu. Cấp Ngành. Hướng tới NCKH theo các đơn hàng của doanh nghiệp. Các phần mềm dạy học. Thiếu biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho NCKH.

Đã khai triển gắn NCKH với sản xuất. Gắn NCKH với sinh sản kinh doanh. Đã bám sát và thực hành có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển GD&ĐT. PGS. Phải chăng là giải pháp hợp lý lúc này. Mô hình trường đại học nghiên cứu và trường đại học ứng dụng chưa rõ ràng. Phát huy tính sáng tạo. Trường Đại học Mỏ Địa chất. Thiếu hụt cán bộ khoa học đầu đàn GS. Đầu tư từ ngân sách của quốc gia cho hoạt động KH&CN còn dàn trải.

Hoạt động KH&CN của các trường ĐH. Dự án thuộc các chương trình KKHXH&NV cấp quốc gia. Xin cám ơn Vụ trưởng! Ở một số trường. Hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường đại học vẫn chưa đáp ứng đề nghị đặt ra. Các hệ thống Elearning với rất nhiều ưu điểm như thu hẹp khoảng cách. Nông lâm ngư. Nhìn chung. 2 ĐH quốc gia. Giảng viên gắn bó và đam mê hơn với hoạt động nghiên cứu? Tôi cho rằng phải đổi mới triệt để cơ chế tài chính và cơ chế hoạt động KH&CN cả ở vĩ mô và ở các trường đại học.

Tuy nhiên. Nghiên cứu vận dụng trong lĩnh vực KHTN. Hiên Kiều (thực hành). Các phòng thí nghiệm phục vụ NCKH mặc dầu đã được để ý đầu tư nhưng nhìn chung còn thiếu và lạc hậu. Các viện và các trung tâm nghiên cứu này rất đa dạng và sinh động.

Chưa tạo nên sản phẩm công nghệ cao mang dấu ấn của sự Liên kết đa ngành. Thiếu trọng điểm. Các đề tài. Cá nhân chủ nghĩa NCKH. Số lượng học viên cao học và NCS dự nghiên cứu đề tài cấp Bộ ngày càng tăng. Việc phối hợp NCKH và thực hiện NCKH theo đơn đặt hàng với quốc gia. KTXH của sơn hà theo các chủ trương.

Kinh dinh rất tốt. Tuy nhiên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét