Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Cô giáo cùng ngắm 2 giỏi.

Cô đã dạy các em từng mặt chữ, từng con số trong tình cảnh còn khó khăn, thiếu thốn đủ bề, những bài giảng được soạn bên những bữa ăn chỉ có rau rừng và được soạn tranh thủ khi còn ánh nắng mặt trời …Thế nhưng cô đã đem khôn cùng mình để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó

Cô giáo 2 giỏi

Cho đến giờ hai vợ chồng học trò đó vẫn đến thăm cô, tâm tư với cô về cuộc sống. Do đó để các em không bỏ học, cô đã không quản ngại khó khăn, vất vả bám trường, bám lớp, đầu tư nhiều thời kì để nắm bắt tâm can, tình cảm của các em, từ đó cổ vũ, khuyến khích các em hăng say học tập và đến lớp đầy đủ.

TS Trần Thị Chung Toàn – Trưởng khoa tiếng Nhật Trường Đại học Hà Nội – Người vừa được nhận giải thưởng hào kiệt sáng tạo nữ Tổng liên đoàn năm 2013 với công trình NCKH “Xây dựng tư liệu học chữ Hán trong tiếng Nhật cho người Việt trên cơ sở tận dụng tri thức Hán - Việt”.

Đôi khi phụ huynh hoặc học trò nhớ cô giáo đến tặng một đôi củ sắn, củ khoai, vài cân ngô hay mấy bông huê rừng cùng những lời chúc vẫn còn bẽn lẽn, vụng về, những tình cảm linh nghiệm, rất đỗi mộc mạc, giản dị và tình thật. TS Nguyễn Thị Chung Toàn: NCKH là một công việc âm thầm, lặng lẽ  lặng thầm cống hiến   Là người vừa trực tiếp giảng dạy, vừa nghiên cứu khoa học từ những năm đầu của thập niên 80, PGS.

Cô Tuyền vẫn còn nhớ như in lần vận động được cả hai vợ chồng người dân tộc đi học. Những người làm NCKH đốn phải tự nghiên cứu, mày mò như những con ong chăm chỉ tích lũy tri thức cho từng lớp, may mắn lắm được giải thưởng này, giải thưởng kia thì mới có người biết và quan hoài đến

Cô giáo 2 giỏi

Cô kể: Do ảnh hưởng của phong tục tập quán, một bộ phận dân tộc ít người như: Mông, Dao,… có phong tục lấy vợ, lấy chồng sớm. Cô Xuân tâm can: “Tôi cảm thấy hạnh phúc khi thấy con chữ đã về với các em, về với bản làng. Thấy các em nói thạo tiếng Việt rồi lớn khôn, trưởng thành mà lòng tôi mừng vui khôn xiết”.

Cô Phạm Thị Xuân cùng các em học trò Trường tiểu học Nậm Cần trong giờ học môn tiếng Việt  Nỗi lòng GV vùng khó  Cô giáo Phạm Thị Xuân – Trường Tiểu học xã Nậm Cần, (Tân Uyên - Lai Châu) người đã có 35 năm trong ngành giáo dục và 25 năm trực tiếp làm thuê tác giảng dạy học trò tiểu học tại những địa bàn thuộc vùng kinh tế, từng lớp đặc biệt khó khăn với 100% học trò là con em các dân tộc thiểu số, phần đông gia đình học trò có hoàn cảnh khó khăn.

Cô Toàn tỏ bày: NCKH là một công việc âm thầm, lặng lẽ, làm không vì khen thưởng và không vì danh vọng. - Môn nghề giáo: Những dấu lặng vô giá     - Dùng âm nhạc để hướng thiện   Cô Hoàng Thị Tuyền bàn bạc bài với học trò  35 năm gắn bó với nghề   Ra trường từ năm 1986, đến nay cô Hoàng Thị Tuyền – tía Trường THCS Pác Pó (Hà Quảng - Cao Bằng) đã có hơn 35 năm gắn bó với các em học trò dân tộc thiểu số thuộc vùng có điều kiện kinh tế, tầng lớp đặc biệt khó khăn.

Lúc bấy giờ có học sinh lớp 7 người dân tộc Mông bỏ học về nhà lấy chồng, cô đã phải lặn lội hàng chục cây số, đến từng nhà rất nhiều lần để động viên các em đi học, sau bao lăm khó nhọc, núm, chung cục cô đã vận động được cả 2 vợ chồng tiếp tục đi học

Cô giáo 2 giỏi

Cô Tuyền giãi tỏ: “Đôi khi hạnh phúc của người thầy chỉ cần như thế là đủ”. Trọng tâm trường cách xa huyện lị, đường sá đi lại hiểm trở, khó khăn, lớp cô đảm nhiệm lại là một lớp có nhiều đối tượng học sinh. PGS. Giờ đây, cô vừa là người mẹ vừa là người bạn của các em học sinh và cô đã trở nên thành viên quen thuộc của bản làng Nậm Cần.

“Với mỗi thầy đang công tác ở vùng sâu, vùng xa như chúng tôi, bên cạnh sự nhiệt huyết với nghề, rất cần sự nhiệt tình, bổn phận và cả sự hy sinh…”      Hoàng Thị Tuyền tía Trường THCS Pác Pó (Hà Quảng - Cao Bằng)     Hải Phong. Thế nhưng, đó lại là một niềm hạnh phúc rất riêng, rất âm thầm, giúp họ có thể vượt qua các nghiên cứu đầy thử thách.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét